Lịch sử hoạt động USS_La_Prade_(DE-409)

Sau khi hoàn tất việc trang bị tại khu vực Galveston-Houston, La Prade lên đường vào ngày 7 tháng 5, 1944, cùng tàu chị em Stafford (DE-411) tiến hành chạy thử máy huấn luyện tại khu vực Bermuda. Sau khi hoàn tất công việc vào đầu tháng 6, nó quay trở lại Xưởng hải quân Boston để được sửa chữa sau chạy thử máy từ ngày 13 đến ngày 22 tháng 6, và chuẩn bị để được điều động sang khu vực Mặt trận Thái Bình Dương. Nó khởi hành từ Norfolk, Virginia vào ngày 27 tháng 6, 1944 để băng qua kênh đào Panama, và đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 25 tháng 7, nơi nó tiếp tục huấn luyện chống tàu ngầm, hoạt động tuần tra và hộ tống tại chỗ. Lên đường đi Eniwetok vào ngày 8 tháng 9, nó tiếp tục hoạt động tuần tra và hộ tống vận tải giữa Eniwetok và Ulithi, rồi tham gia một đội đặc nhiệm tim-diệt tàu ngầm trong quá trình đổ bộ lên Palau. Sau khi chiến dịch kết thúc, nó quay trở về Eniwetok vào ngày 9 tháng 10, tiếp tục nhiệm vụ tuần tra và hộ tống vận tải.[1]

Đang khi hộ tống chiếc tàu tuần dương hạng nặng Canberra (CA-70) bị hư hại rút lui về đảo Manus thuộc quần đảo Admiralty vào ngày 12 tháng 11, La Prade được tách ra để trợ giúp một chiếc PBM Mariner gặp trục trặc phải hạ cánh trên biển. Nó đã canh phòng tại chỗ cho đến khi bàn giao lại chiếc thủy phi cơ cho chiếc tàu tiếp liệu thủy phi cơ Onslow (AVP-48) được phái đến. Trong giai đoạn từ tháng 11, 1944 cho đến tháng 3, 1945, nó hộ tống các đoàn tàu vận tải đi lại giữa Leyte, Manus và Ulithi. Nó cũng tham gia cùng tàu tiếp liệu thủy phi cơ Casco (AVP-12) để phối hợp tấn công một tàu ngầm bỏ túi đối phương lại lối ra vào Kossol Roads ở Palau.[1]

Rời Ulithi vào ngày 30 tháng 3 để hướng sang khu vực quần đảo Ryūkyū, La Prade hộ tống một đội tàu tiếp dầu làm nhiện vụ tiếp nhiên liệu cho Lực lượng Đặc nhiệm 58 dưới quyền Phó đô đốc Marc Mitscher, giúp cho các tàu sân bay có thể hoạt động liên tục trong chiến dịch đổ bộ lên Okinawa. Nó tiếp hỗ trợ cho hoạt động tác chiến tại đây cho đến khi hòn đảo này được tuyên bố bình định vào ngày 26 tháng 6. Con tàu tiếp tục vai trò tuần tra và hộ tống cho đến khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8, giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột.

Tham gia vào lực lượng chiếm đóng, La Prade đi đến Sasebo, Nhật Bản vào ngày 23 tháng 9, rồi quay trở về Okinawa vào ngày 10 tháng 10. Nó khởi hành bốn ngày sau đó để quay trở về Hoa Kỳ, về đến San Diego, California vào ngày 5 tháng 11. Con tàu được cho xuất biên chế vào ngày 15 tháng 5, 1946 và được đưa về Hạm đội Dự bị Thái Bình Dương, neo đậu cùng Đội San Diego.[1][2][7] Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 15 tháng 1, 1972,[1][2][7] và con tàu bị bán để tháo dỡ vào ngày 15 tháng 1, 1973.[1][2][7]